Thứ Sáu, 27 tháng 1, 2012

Lễ hội Xuân (1)


Ở nước ta, nhất là ở miền Bắc từ Nghệ Tĩnh trở ra, mùa Xuân là mùa của hội hè đình đám. Ca dao ta có câu:
Tháng Giêng ăn Tết ở nhà,
Tháng Hai cờ bạc, tháng Ba hội hè.

Thế nhưng, không phải chỉ có “tháng Ba hội hè” mà hội hè trải dài suốt cả mùa Xuân.

Đây là hội tháng Giêng:
Lễ Phật quanh năm,
Không bằng hội Rằm tháng Giêng.

Đây là hội tháng Hai:
Ai là con cháu Rồng Tiên
Tháng Hai mở hội Trường Yên thì về . . .

Đây là hội tháng Ba:
Tình cờ ta lại gặp ta,
Vui bằng mở hội tháng Ba đền Sòng.

Có những địa phương như vùng “quan họ” Bắc Ninh còn vạch ra lịch vui Xuân của từng làng để các làng tổ chức khỏi trùng nhau và dân chúng các vùng lân cận có thể tham gia:
Mồng bốn là hội Kéo Co,
Mồng năm hội Ó chẳng cho nhau về.
Mồng sáu đi hội Bồ Đề,
Mồng bảy trở về đi hội Đống Cao . . .

Có một số hội Xuân lại được tổ chức vào thượng tuần tháng Tư:
Ai ơi, mồng chín tháng Tư,
Không đi hội Gióng cũng hư một đời!
Hay:   Mồng bảy hội Khám,
Mồng tám hội Dâu,
Mồng chín đâu đâu
Trở  về hội Gióng.

Tại sao hội hè đình đám lại thường được tổ chức nhiều nhất là vào mùa Xuân và thứ đến là mùa Thu? Ngày trước, nước ta là một nước nông nghiệp theo phương pháp canh tác cổ truyền. Vào ngày mùa, người nông dân phải quần quật suốt ngày ngoài đồng ruộng. Do đó, họ cần phải có một khoảng thời gian nào đó để nghỉ ngơi, giải trí, thụ hưởng cái thành quả lao động dù ít oi của mình. Mùa Xuân chính là mùa lý tưởng nhất. 

Hằng năm họ chỉ có hai dịp rảnh rỗi sau vụ cấy lúa Chiêm vào tháng Chạp và lúa Mùa vào tháng Bảy. Giêng, Hai và tháng Tám là lúc dân quê được nghỉ ngơi, lúa lúc này đã cấy xong và những hoa màu phụ cũng đã trồng, mùa gặt chưa tới và hoa màu phụ cũng chưa dỡ. Nhân dịp này các làng tổ chức hội hè cho dân chúng mua vui.”

Trong tác phẩm Việt Nam Văn Hóa Sử Cương, nhà khảo cứu Đào Duy Anh cũng đưa ra nhận xét:

Trong làng thường năm có nhiều kỳ tế lễ để dân làng có dịp “ăn uống” và “vui chơi”. Những cuộc tế 1ễ lớn nhất là lễ Kỳ phúc về mùa Xuân và mùa Thu để cầu bình yên cho dân làng, lễ Nhập tịch hay vào đám vào khoảng tháng Giêng, tháng Hai, khi thường thì chiếu lệ tế lễ dăm bảy ngày, năm nào hòa cốc phong đăng dân gian làm ăn thịnh vượng hay nhân lễ rước sắc thần, hay nhân lễ khánh thành đình mới thì mở Đại hội, bày những cuộc vui chơi hát xướng đến nửa tháng hay cả tháng.

Các lễ hội mùa Xuân ở nước ta có từ bao giờ? Thật khó mà trả lời cho xác đáng. Có một điều ta có thể xác nhận là ngay từ thời dân ta còn sống dưới chế độ bộ lạc quây quần ở vùng đất châu thổ sông Hồng ngày nay, tức thời đại Hùng Vương, thì đã manh nha hình thức của lễ hội mùa Xuân. Trong tác phẩm Việt Nam Cổ Văn Học Sử, tác giả Nguyễn Đổng Chi đã viết:

“Vào những ngày hội hoặc ngày tế thần, thường thường là mùa Xuân xa ngày cấy hái, trai gái các bộ lạc thôn ấp thường tụ tập lại một nơi, đặt ra lời ví hát ghẹo nhau, trong khi gảy đờn, thổi sáo, đánh trống, múa nhảy hay là bày các trò vui.”

Thường thường lễ hội mùa Xuân được tổ chức ở chùa hay đình làng. Chùa là nơi thờ Phật. Đình, miếu là nơi thờ Thần.

“Miếu là chỗ quỷ thần bằng y, đình là nơi thờ vọng, và để làm nơi công sở cho dân chúng hội họp.”

“Làng nào cũng có một cái nhà chung (tức là Đình Làng – ĐĐN chú thích) vừa là nơi thờ Thần, vừa là nơi tụ hội của dân. Đối với dân làng, thần Thành Hoàng là biểu hiệu của lịch sử, phong tục, đạo đức, pháp lệ cùng hy vọng chung của cả làng, lại cũng là một thứ quyền uy siêu việt, một mối liên lạc vô hình, khiến cho hương thôn thành một đoàn thể có tổ chức và hệ thống chặt chịa.”

Đình miếu là nơi thờ thần Thành hoàng. Mỗi làng thờ một vị thần Thành hoàng, có làng thờ hai hoặc ba vị. Các vị Thành hoàng có thể là những nhân vật huyền thoại của dân tộc như Phù Đổng Thiên Vương, Chữ Đồng Tử, Liễu Hạnh Công chúa…hay các nhân vật lịch sử có công với dân tộc như Hai Bà Trưng, Đinh Tiên Hoàng, Trần Hưng Đạo…Có làng thờ Thành hoàng là người đã có công xây dựng ra làng như Hoàng Cao Khải được thờ ở Thái Hà ấp, Nguyễn Công Trứ được làm Thành Hoàng ở nhiều đình làng thuộc hai huyện Tiền Hải và Kim Sơn tỉnh Ninh Bình. Lại có nhiều làng, vì niềm tin đặc biệt vào những người thác sinh vào ngày giờ được xem là linh thiêng cũng được dân làng thờ làm thần Thành hoàng, lắm khi các vị thần này là những tà thần ăn trộm, thần tà dâm v.v. . .

Trong các ngày lễ hội, ngoài các chính lễ được thực hiện một cách trang trọng như lễ mộc dục (tắm cho tượng thần thờ trong đình) các hình thức tế lễ…còn có một  nghi thức đặc biệt gọi là “hèm”, người ta thường bày một trò tiêu biểu để nhắc lại tâm tính, sự nghiệp hoặc hành vi của vị thần làng thờ. Như sau đây chúng ta sẽ thấy trong sự tích “đánh giặc Ân” của Thánh Gióng tức Phù Đổng Thiên Vương, sự tích “cờ lau tập trận” của Đinh Bộ Lĩnh tức vua Đinh Tiên Hoàng, hay trong lệ “rã đám” của làng La Khê ở Hà Đông.

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét